Những ngôi chùa nổi tiếng đất Thăng Long

Ngay giữa thủ đô Hà Nội, xen kẽ giữa những phố phường tấp nập là hơn 100 ngôi chùa lớn nhỏ. Trải qua hàng trăm năm, những ngôi chùa vẫn giữ nguyên được dáng vẻ nguyên sơ, cổ kính của chúng. Và khi nhắc đến chùa Hà Nội chúng ta không thể bỏ qua chùa Quán Sứ, chùa Láng, ... những cái tên đã làm nên những nốt trầm trong bản nhạc đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến.

Chùa Quán Sứ - Chùa Quán Sứ nằm ở số 73 phố Quán Sứ , phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm. Trước đây, khu vực này thuộc thôn Yên Tập, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên. Chùa thờ Phật và thờ vị quốc sư triều Lý là Nguyễn Minh Không.
Năm 1943, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ. Năm 1942, chùa được xây lại theo quy mô kiến trúc và trang trí nội thất như ngày nay. Chùa có quy mô kiến trúc lớn, tam quan kiểu 3 tầng mái, chính giữa là lầu chuông.

Qua tam quan đến một sân rộng lát gạch. Giữa sân xây tòa chính điện cao, hình vuông, có hành lang bao quanh. Hai bên và đằng sau là là dãy nhà dung làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng. Chùa Quán Sứ hiện nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Chùa Láng (Chiêu Thiền Tự) - Chùa Láng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128-1138) để thờ Từ Đạo Hạnh là một nhà tu hành đắc đạo, nổi tiếng thời Lý. Chùa lập ngay trên nền nhà cũ của cha mẹ Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh và Nguyễn Thị Loan, ở địa phận làng Yên Lãng, tức là làng Láng vì thế gọi là chùa Láng.

Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh đã đắc đạo liền hóa kiếp ở chùa Sài Sơn (tức chùa Thày), huyện Quốc Oai, đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu Dương Hoán, em ruột vua Lý Nhân Tông. Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của Sùng Hiền hầu Dương Hoán làm Thái tử. Về sau người con trai ấy làm vua tức là Lý Thần Tông. Cũng vì sự tích ấy mà sau này chùa Láng cũng như chùa Thày thờ Từ Đạo Hạnh đều có thờ Lý Thần Tông.

Chùa Láng xây dựng trên một khu đất rộng, có nhiều cây cổ thụ, từ xưa vẫn được coi là nơi đệ nhất tùng lâm của kinh đô Thăng Long. Từ thời Lý đến nay, chùa đã được nhiều lần sửa chữa, nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính. Trong chùa có nhiều đồ thờ cổ, có nhiều tượng phật, có tượng Lý Thần Tông và đặc biệt là tượng Từ Đạo Hạnh không tạc bằng gỗ đá, mà đan bằng mây và quét sơn bên ngoài. Trước đây, trong chùa còn giữ được một cuốn sách kinh bằng đồng khắc chữ, tương truyền là của vua Lý Nhân Tông dùng tụng niệm khi sinh thời.

Chùa Cầu Đông - Chùa có tên là "Đông Hoa Môn tự" bắc qua sông Tô ở phía đông Hoàng thành Thăng Long xưa. Hiện nay chùa nằm tại số 38 B phố Hàng Đường phường Hàng Đào, trong khu vực phố cổ Hà Nội. Phố này dài 180m nhưng thuộc về đất đai của hai làng cổ. Đoạn trên là đất làng Vĩnh Thái, đoạn dưới là đất làng Đông Hoa Môn.

Chùa Cầu Đông được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XVII). Năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624), chùa được sửa chữa và mở rộng. Các năm 1639, 1711, 1816 chùa lại được trùng tu. Chùa hiện giữ được kiểu dáng kiến trúc cổ. Tam quan xây lầu cao làm gác chuông. Chùa chính hình chữ đinh, các mảng chạm hổ phù, rồng vờn mây, hoa lá mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII.

Chùa có 60 pho tượng cổ, tiêu biểu nhất là các tượng Tuyết Sơn, Di Lạc và bộ Tam Thế là cổ vật rất quí. Chùa còn bốn tấm bia có các niên đại 1624, 1639, 1711, 1816. Bia 1624 có tên là Đông Môn tự ký (bài ký về chùa Đông Môn) do nhà sư Nguyễn Văn Hiệp dựng, kể lại việc chính ông mua thêm đất mở rộng khuôn viên và xây dựng mở mang chùa. Ngoài ra, trong chùa còn cổ vật là quả chuông đồng đúc thời Tây Sơn năm 1800, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8. Trên chuông có bài minh mở đầu bằng dòng chữ: “An Nam quốc, Phụng Thiên phủ, Thọ Xương huyện, Đông Hoa Môn Nội Tự thôn”, và cho biết: “Duy gọi chùa cổ, cầu đá ven sông, sông Tô bên trái, cửa Hoa bên phải”.

Ghi chép này đúng với vị trí hiện nay của chùa. (Cửa Hoa tức cửa Đông Hoa ở khoảng ngã tư Hàng Vải-Bát Sứ). Trong chùa bên trái hậu cung có thờ hai pho tượng Trần Thủ Độ và bà vợ. Như vậy, nơi đây độc nhất ở Hà Nội có thờ vị khai quốc nhà Trần. Chùa Cầu Đông đã đi vào ca dao:
"Cầu Đông vang tiếng chuông chùa
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương
Mặt ngoài có phố Hàng Đường...”


Năm 1989, chùa được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa.

Chùa Ngũ Xã - Chùa Ngũ Xã có tên là Thần Quang Tự, được xây dựng từ thế kỷ XVIII thời hậu Lê (1428-1788 ). Xưa chùa thuộc thôn Ngũ Xã, là một bán đảo bên hồ Trúc Bạch, có nghề đúc đồng nổi tiếng thuộc tổng Thuận Thành, huyện Vĩnh Thuận, thành Thăng Long. Nay là số nhà 44 phố Ngũ Xã, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình - Hà Nội.

Chùa Ngũ Xã, ngoài việc thờ Phật còn thờ nhà sư Nguyễn Minh Không, tục truyền là tổ nghề đúc đồng. ở đây chỉ có một pho tượng Di Đà rất lớn, mới được đúc năm 1952. Việc đắp cốt được khởi công vào ngày Phật Đản (tức ngày 8-4 âm lịch) năm 1949. Đến cùng ngày này năm 1952 thì khánh thành. Tượng cao gần 4m,  chu vi tượng đo tới 11,6m. Trọng lượng toàn pho tượng là 10 tấn đồng. Còn Tòa sen gồm 76 cánh cũng đã dùng tới 1,6 tấn đồng. Tượng Di Đà của Chùa Ngũ Xã là một kiệt tác của nghề đúc đồng thủ công ở Hà Nội.

Chùa Ngũ Xã là một trong số ba ngôi chùa ở Hà Nội được xây dựng lại trong thập kỷ 40 và 50 bằng vật liệu mới (xi măng, sắt thép), nhưng vẫn giữ phong cách chùa cổ điển Việt Nam (hai ngôi chùa kia là chùa Quán Sứ xây dựng lại vào năm 1942 và chùa Hưng Ký xây năm 1933).

Chùa Hòe Nhai - Chùa Hoè Nhai tên chữ là Hồng Phúc tự, nay ở số 19 phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là ngôi chùa cổ, tương truyền có từ đời nhà Lý, trải qua nhiều lần sửa chữa lớn vào các năm 1687, 1899 và 1952.

Phía trước là nhà chính điện, phía sau là nhà tổ và tăng phòng, xung quanh là hành lang. Trong chùa có một số bia đá, cổ hơn cả là bia dựng năm Chính Hoà 24 (1703) ghi rõ vị trí chùa ở phường Hoè Nhai, tại Đông Bộ Đầu tức Bến Đông. Chính nhờ bia này mà giới sử học ngày nay xác định được vị trí trận chiến thắng ngày 29-1-1258 của quân dân nhà Trần mà sử chép là chiến thắng Đông Bộ Đầu, đuổi quân
Trong chùa có 36 pho tượng, cổ nhất là tượng Cửu Long (Thích Ca mới ra đời) và đặc sắc nhất là tượng một vị Phật ngồi trên lưng một ông vua nằm phục xuống.

Chùa Hòe Nhai là “chốn tổ” của phái Tào Động, một trong hai phái lớn của Thiền Tông ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1962, Thành Hội Phật giáo Hà Nội đã dựng tại đây tháp ấn Quang để kỷ niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức tu tại chùa ấn Quang Sài Gòn đã tự thiêu ngày 11-6-1963, để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Chùa được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa ngày 21/1/1989.

Chùa Kim Liên - Chùa được dựng trên dải đất của làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây, nay thuộc phường Nghi Tàm, quận Tây Hồ. Tương truyền nơi dựng chùa là nền cũ của cung Từ Hoa có từ đời Lý. Nguyên công chúa Từ Hoa, con gái vua Lý Thần Tông (1128-1138) đã đem cung nữ tới khu vực này trồng dâu, nuôi tằm, mở ra trại Tàm Tang (tằm dâu).Trại này sau đổi tên là phường Nghi Tàm.

Chùa có từ thế kỷ XVII. Theo tấm bia hiện còn trong chùa soạn ra có nêu: chùa vốn có tên là Đại Bi dựng vào năm 1631. Bảy năm sau, nhân dân góp công để mở rộng thêm khu chùa. Đến năm 1771, chúa Trịnh cho dỡ chùa Bảo Lâm ở phía tây kinh thành về tu bổ lại chùa này và đổi tên chùa là Kim Liên. Cái tên Kim Liên có từ đó, nhưng diện mạo chùa như hiện nay là do lần trùng tu vào năm 1792 với bố cục theo kiểu chữ "tam", gồm ba nếp, mỗi nếp có hai tầng mái. Các đầu đao cong vút, mềm mại.

Trong chùa có một pho tượng quý khiến giới sử học hết sức quan tâm đó là pho tượng có hình dạng như một người trung niên, râu ba chòm, mình mặc áo cà sa, tay cầm hốt, đầu lại đội mũ dành cho vua quan. Có thuyết bảo đó là tượng chúa Trịnh. Nhưng cũng có người cho rằng đó là tượng của một vị hòa thượng coi giữ chùa, nguyên là nội thị trong phủ chúa Trịnh. Ngoài pho tượng này (có cách đây hơn hai trăm năm), ở gian giữa chùa có bức hoành phi "Hoàng uẩn” (có nghĩa là: Đạo lý sâu sắc và rộng rãi) làm vào năm 1870. Còn hoành phi "Liên hoa hải hội" (có nghĩa là: Cảnh sum vầy vui đẹp nước Phật) thì mới được làm năm 1930.

Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995” do Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương xuất bản đã đánh giá chùa Kim Liên là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam.

Chùa Liên Phái - Ở giữa phố Bạch Mai nội thành Hà Nội, có một cái ngõ tên là ngõ Chùa Liên Phái. Đó chính là lối dẫn vào ngôi chùa Liên Phái cổ kính. Hai bên cổng là hai hồ rộng, ngay ở cổng chùa có tháp Diệu Quang cao 10 tầng hình lục lăng. Tiếp đến là nhà bia có tấm bia kể lại sự tích chùa.

Qua sân rộng là nhà bái đường, sau đó là hậu cung. Một khoảnh sân trồng hoa ngăn cách hậu cung với nhà tổ. Trong chùa có 15 pho tượng. Điều khiến cho chùa Liên Phái được coi như một di tích lịch sử giá trị chính là khu vườn tháp phía sau chùa. Tại đó, trên một gò đất cao có 9 ngôi tháp xây thành 3 hàng: hàng thứ nhất có hai ngôi, hàng giữa có năm ngôi và hàng sau hai ngôi. Hàng giữa chóan phần cao nhất có ngôi tháp Cứu Sinh bằng đá là nơi táng hài cốt vị sư tổ thứ nhất, đồng thời là người sáng lập ra chùa Liên Phái-Phò mã Trịnh Thập.

Sự tích vị sư tổ Trịnh Thập được kể lại như sau: Trịnh Thập (hay Hợp, sinh năm 1696, mất năm 1733) là một tôn thất họ Trịnh được lập phủ đệ riêng ở phường Hồng Mai (nay là Bạch Mai). Một lần Trịnh Thập cho đào đất ở gò cao sau nhà để xây bể nước thì thấy trong lòng đất có một tảng đá hình ngó sen. Ông cho đó là dấu hiệu của Phật và tin rằng mình có duyên với đạo này.
Sau đó, Trịnh Thập biến phủ đệ của mình thành chùa Liên Tông, đồng thời xuống tóc đi tu và trở thành vị tổ thứ nhất của chùa này. Ông mất năm 37 tuổi, hài cốt được táng trong ngôi tháp xây ở giữa gò, nơi từng đào được ngó sen đá-đó là tháp Cứu Sinh. Theo một tấm bia hiện còn ở chùa khắc năm 1857 thì chùa được xây vào năm 1726.

Đến thế kỷ XIX, chùa Liên Tông đổi tên thành Liên Phái. Như vậy, ngôi chùa đã trên 250 năm, ngôi tháp Cứu Sinh cũng ngần ấy tuổi. Đây là ngôi tháp cổ có lai lịch rõ ràng nhất, hiện ở khu vực nội thành Hà Nội.
Chùa được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa ngày 28/4/1962.

Chùa Trấn Quốc - Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội.

Theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), thì chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639,chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã đễợc nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa khác trên đất nước Việt, chùa Trấn Quốc có nhiều lớp, có nhà bái đường, nhiều tượng Phật từ thấp đến cao, từ to đến nhỏ, vàng son lấp lánh, hương khói quanh năm... Đặc biệt có pho tượng Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng lộng lẫy. Chùa còn có 14 tấm bia, trong đó có bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1639 và 1015...
Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo phía đông của Hồ Tây, nên thuộc đất làng Yên Phụ, nơi có ngôi đình thờ thánh. Vào mùa xuân hằng năm dân làng tổ chức đám rước từ đình sang chùa rồi từ chùa về làng bằng cả một đoàn thuyền nối nhau cờ reo trống thúc tưng bừng.

Chùa Hà - Nếu như những ngôi chùa khác tập trung nhiều tầng lớp trung niên, các cụ ông cụ bà, đến để giải hạn, để lễ bái, thì chùa Hà được đông đảo học sinh, sinh viên biết đến với một cái tên khác – Chùa Tình yêu.

Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, trước thuộc làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Cầu Giấy - Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Chùa Hà được lập nên để Tư Thành (tên tự của vua Lê Thánh Tông) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần: Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt... đã cưu mang mình và phế bỏ thái tử Nghi Dân (anh trai Tư Thành - một kẻ phản vương, phản quốc) để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460, lấy hiệu là Lê Thánh Tông. Chùa đã được trùng tu quy mô lớn vào đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa (1680-1705).

Chùa Hà nhìn ra hướng tây, tam bảo năm gian rộng, Phật điện ba gian theo kiểu chữ đinh, phía trước là tam quan theo kiểu truyền thống. Trên có gác chuông, gác nọ nối vào gác kia, mái cong cao vút bên góc tạo cho tam quan dáng vẻ nhẹ nhàng và thoáng mát. Ở chùa Hà còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ bằng gốm như bát hương, chĩnh, ang, vại... thể hiện sự tôn kính và tín ngưỡng của người Thổ Hà (xứ Kinh Bắc) xưa kia. Đặc biệt, chùa Hà còn lưu giữ nguyên vẹn một quả chuông đồng đúc từ thời vua Cảnh Thịnh thứ 7 (1799).
Chuông cao hơn 1,30m, chu vi 1,5m, trrên thân chuông có khắc bài văn cổ chứa đựng nhiều tư liệu quý.
Đến tham quan Chùa Hà, Đình Hà, ta tìm thấy giá trị lịch sử - văn hóa ẩn tàng trong khối kiến trúc toàn cảnh hoành tráng, thật nghiêm nhưng bình dị.  Chùa Hà còn có một điểm thu hút rất nhiều bạn trẻ-nghe một lần không thể không đến, đó là : Cầu tình duyên cực linh nghiệm và không biết tự bao giờ cái tên "chùa cầu duyên" đã gắn với chùa Hà.

Theo Yeudulich