Về nơi hoang dã của người Tà Rụt
Xa xôi Ta Rụt
Tôi đã từng nghe hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu khi viết về dãy đại ngàn Trường Sơn nổi tiếng: Trường Sơn Đông nắng Tây mưa/Ai chưa đến đó thì chưa rõ mình. Và có lẽ chưa đếnTà Rụt thì chưa hiểu được Tà Rụt, và mình chưa hiểu được chính mình.
Từ huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên – Huế, chúng tôi xuôi theo đường mòn 14 (Hồ Chí Minh), khắc khổ, oằn mình vắt qua những dãy núi như những rải lụa ẩn hiện trong sương mờ. Thời tiết rừng Trường Sơn cũng thật khó đoán, chẳng khác gì những đứa con gái mới lớn thích đỏng đảnh. Có khi đang nắng ấm, nhưng chỉ chưa đầy 10 phút sau lại mưa nhễ nhại, mưa như trút.
Hơn 89 km, với con đường quanh co, khúc khuỷu, uốn lượn theo sườn núi, bám theo dòng sông Đakrông. Nước sông mùa này không nhiều, thậm chí cạn ráo để trơ những lèn đá liêu xiêu hay những bãi cuội vàng ươm, óng ánh. Hai bên sườn núi dựng đứng cao vút, bỗng thấy mình lọt thỏm giữa đại ngàn trùng điệp, núi tiếp núi lô nhô, sừng sững.
Con đường sáng lên màu xám bạc tựa như con rồng con rắn đang uốn mình bên những đại ngàn phủ một màu xanh thẫm. Có những đoạn đường nằm chênh vênh tưởng như đang treo bên sườn núi, sườn đổ xuống phía sông dốc sâu thăm thẳm. Lúc sương mù, mưa phùn trắng xóa, thoáng rùng mình khi con đường vắng tanh, thỉnh thoảng mới có bóng người phóng xe, tạt qua. Nhìn những vách núi dựng đứng, bên cạnh là những vực sâu hun hút, chúng tôi không khỏi rùng mình ái ngại khi những cơn mưa bất chợt ập đến, trong khi đó mọi người bảo đoạn đường này thường xuyên xẩy ra tình trạng lở núi, đá rơi. Chiếc xe chúng tôi đi vừa ỳ ạch vượt qua đèo Peeke với độ dài hơn 8000m, dường như quá nổi sức chịu đựng, chiếc xe bốc mùi khét lẹt…
Vượt qua bao khó khăn, nguy nan, cuối cùng chúng tôi cũng đến được Tà Rụt xa xôi. Tà Rụt nằm lọt thỏm giữa bốn bề mây trắng, như một ốc đảo thấp thoáng trong sương mù. Hai bên con đường mòn bạc trắng, lác đác mấy cái nhà xây hai tầng, một cột ăng-ten của viễn thông có vẻ ra dáng thị thành, mà Tà Rụt là một thị tứ. Hai bên đường có nhiều quán nhậu, quán café, quán karaoke, quán bán tạp hoá, bán hàng điện tử, tiệm may… đủ cả. Bên những vệ đường mấy cô sơn nữ Pakô vẫn mang achói, miệng ngậm tẩu thuốc nhưng áo và xấn cũng bằng vải người Kinh đưa lên, cũng có mấy mế mang xấn thổ cẩm. Có những chiếc xe Wave Tàu lao vun vút do hai hoặc ba thanh niên dân tộc phóng đi vẫn đầu trần không mũ bảo hiểm.
Chính những điều đang diễn ra nơi đây khiến chúng tôi hồ nghi có một bộc tộc ở trần đang sinh sống ngay cạnh những thứ “xa hoa, xa xỉ” ở thị tứ Tà Rụt xa xôi này. Nhưng, đó là thông tin của ông bạn thân hữu, nhiều năm lặn lội trong vùng rừng núi đại ngàn Trường Sơn, và tôi quyết định nán lại hỏi cho rõ sự tình. Táp vào quán nước vệ đường, gọi chai nước uống ngồi lân la hỏi chuyện. “Cuộc sống nơi đây cũng khấm khá vậy mà mọi người cứ đồn đại, đến quần áo không có mà mặc, mọi người toàn ở trần”, tôi bắt đầu gợi chuyện.
Người đàn ông ngoài tứ tuần cười hóm hỉnh: chỉ được tí ngoài mặt đường thôi, các anh cứ đi sâu vào trong bản khoảng trăm mét thì là một thế giới khác rồi. Bản… ở trần các anh cần tìm đó. Và theo cái chỉ tay của ông chủ quán tóc muối tiêu, chúng tôi nổ xe vào sâu trong bản, nơi có bộ tộc ở trần đang sinh sống, những cái lạ, cái xa xôi giữa đại ngàn…
Diện kiến “bộ tộc” độc nhất nhì Việt Nam
Vượt qua những ngôi nhà khang trang, men theo con đường nhão nhoét bùn, chúng tôi tiến sâu vào bản. Dọc hai bên đường, những ngồi nhà sàn lúp xúp nằm rải rác bên sườn đồi, vài đứa trẻ trần truồng đen nhẻm, có đứa quần áo lếch thếch bẩn thỉu chơi bên hiên nhà đưa ánh mắt lạ lẫm nhìn chúng tôi dò xét. Bên ô cửa sổ, vài cụ già ở trần, ngồi trầm mặc, miệng ngậm tẩu thuốc nhoẻn cưới với những vị khách lạ.
Hít một hơi dài, chúng tôi bước vào ngôi nhà sàn khá rộng lớn đang có nhiều người trò chuyện. Bên bếp tro tàn, khoảng 6 người đang ngồi trò chuyện vui vẻ. Trong đó 4 người phụ nữ, người ít tuổi nhất khoảng 30 tuổi, còn người nhiều tuổi nhất ngoài 70 đều ở trần, 2 người đàn ông thì đóng khố. Thấy khách lạ, một người tuổi tự xưng là chủ nhà mời chúng tôi vào ngồi cùng. Hỏi ra mới biết, bà tên Kăn Giêng ở bản Tù Rụt 2, và những người xung quanh đều là con cháu và hàng xóm của bà.
Khi chúng tôi hỏi, vì sao bây giờ kinh tế đã no đủ, sao người dân vẫn đóng khố, ở trần là sao. Bà Kăn Giêng vui vẻ trả lời: Đúng là hiện nay người dân nơi đây đã no đủ, tuy nhiên nhiều người vì quen ở trần rồi nên khi mặc quần áo vào thấy bứt dứt khó chịu lắm. Còn nhớ vài chục năm trước, người dân nơi dây từ trẻ đến già đều đóng khố, ở trần hết. Bây giờ người dân có điều kiện và được tiếp xúc với “thế giới hiện đại” nên cũng ý thức được nhiều điều. Chẳng hạn khi ra ngoài thì phải mặc quần áo cho “đỡ phản cảm”, còn ở nhà, nếu mọi người thích thì cứ ở trần. Những cô gái trẻ, chưa chồng họ đều mặc quần áo, không ai ở trần cả. Mùa này là mùa lạnh nên ít người ở trần chứ vào mùa hè, gió Lào thì muốn tìm được người phụ nữ nào trên 30 tuổi mặc áo mới khó.
Chia tay nhà Kăn Giêng, chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong bản, người đàn ông mặc khố, mình trần đang phăm phăm cuốc vườn. Đó là ông Ko Nam (80 tuổi), ông có nước da rắn rỏi, cơ bắp cuồn cuộn, khỏe mạnh. Gặp chúng tôi, ông nghỉ tay trò chuyện, ông bảo: Tôi thường làm những công việc nặng nhọc, ra mồ hôi nhiều, chính vì vậy mà tôi không thích mặc quần áo vì rất vương víu và nóng bức. Mặt khác, từ nhỏ tôi đã quen với việc cởi trần rồi, giờ mặc áo thấy khó chịu. Giờ xã hội văn minh hơn, nhưng tôi cũng chỉ cần may một bộ quần áo dài, để khi đi đâu thì mặc thôi…
Trao đổi với chúng tôi, ông Kray Sức, cán bộ văn hóa xã Tà Rụt cho biết: Tà Rụt là nơi sinh sống của dân tộc Pa Cô, Vân Kiều, Tà Ôi, Kinh… Trong đó người Pa Cô chiếm tỷ lệ nhiều nhất và cũng là người thích ở trần như mọi người gặp. Người Pa Cô thường tập trung sinh sống trong các bản làng cách xa trung tâm xã.
Cũng theo Kray Sức thì việc người dân ở trần hoàn toàn không phải do tục lệ, cũng không phải vì nghèo túng, mà đó chỉ là do thói quen. Mà thói quen của mọi người thì chính quyền không thể can thiệp được, bởi họ thường chỉ mặc như vậy khi ở nhà, làm vườn và đi nương thôi, đi ra ngoài thì họ vẫn mặc áo bình thường như bao người khác.
Tìm về gia đình mẹ Kôn Thăng , mẹ có cả thảy chín người con, dâu rể. Ba đứa út vẫn còn đi học. Chồng mất sớm, còn một mẹ già thì đau ốm nằm liệt giường cả năm nay. Ở cái tuổi 50 nhưng ngày ngày mẹ vẫn phải quần quật với nương rẫy để lo cho gia đình và ba đứa ăn học.
Đất của gia đình cũng chỉ có khoảng 4ha, nhưng khi ông Chủ tịch xã tìm đất xây trường học, mẹ không ngần ngại hiến hơn 1.000m2 đất. “Cái thời của mẹ không biết cái chữ nên mới nghèo. Nay Nhà nước quan tâm cho dựng trường để con cháu mình đi học. Nghèo cũng nghèo rồi, mất ít đất thì kể chi” – mẹ Kôn Thăng quả quyết… Và cũng như bao thế hệ trước của người Tà Rụt, mẹ Kôn Thăng chỉ lúc nào se lạnh mới khoác chiếc áo trên người. Hàng ngày dầm mưa dãi nắng, mẹ cũng chỉ cái quần quấn và mảnh lưng trần vậy thôi.
Càng đi sâu tìm hiểu về người Tà Rụt, chúng tôi cảm nhận còn nhiều điều hoang sơ lắm. Nhưng, giờ đây, có nỗi buồn mà các người già Tà Rụt không “ưng cái bụng” là nạn “đi sim” của giới trẻ. Xưa, “đi sim” là một phong tục đẹp để những đôi trái gái tìm hiểu và yêu nhau, tự do quan hệ và đến với nhau nếu thật lòng yêu thương.
Giờ đây, “Đi sim thời… hiện đại đã làm nạn tảo hôn diễn ra khá phổ biến ở những bản làng heo hút vùng cao sát biên giới và không ít những trường hợp kết hôn khi tuổi còn rất nhỏ”- Anh Kray Sức, Cán bộ văn hoá xã Tà Rụt nói với chúng tôi khi nhắc đến tục “đi sim”. Kray Sức cho biết thêm: “Mặc dù chính quyền xã đã có nhiều biện pháp ngăn chặn tình trạng trên nhưng xem ra không mấy hiệu quả. Trai gái sau khi “đi sim” rồi lén lút cưới nhau hoặc gia đình khai thêm tuổi để được cưới. Nạn tảo hôn không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản mà còn đẩy những hộ gia đình đến cảnh túng quẫn nghèo đói!”. Kray nhìn tôi rồi thốt ra một câu buồn lê thê, “giá như Tà Rụt không có “đi sim” biến tướng”!?
Chiều về muộn, những cơn mưa phùn bất ngờ ập đến, lạnh lẽo giữa dãy núi Trường Sơn đại ngàn hùng vĩ. Trong những ngôi nhà sàn bên cạnh bếp đỏ lửa, những người đàn bà mặc váy, mình trần, những người đàn ông đóng khố, nói chuyện vui vẻ. Thấp thoáng bên ánh lửa chúng tôi chỉ thấy họ thật đẹp, thật ấm cúng, hạnh phúc mà không hề có một ý nghĩ trần tục. Bên ngoài, từng cột khói mang hình thù kỳ lạ, lững lờ bay ra từ khu bếp, khiến chúng tôi có tâm trạng lạ kỳ, dường như câu nói “người đẹp vì lụa…” không hẳn lúc nào cũng đúng.
- Theo báo Phaply, Nguoiduatin
0 nhận xét: