Những chặng đường gió bụi (Phần 1)
< Đường lên Tây nguyên.
Chiếc xe U át của công ty đìện lực miền trung chở 4 thằng tuổi Ngọ chúng tôi đang chầm chậm leo trên quốc lộ 19, nhằm hướng Pleiku băng tới. Đây! đèo An Khê đây! Anh lái xe giới thiệu với mọi người.
Cảnh đẹp vây quanh chúng tôi từ bốn phía. Những đoạn đèo ngoằn ngoèo cứ nối tiếp nhau mà tôi chỉ nhớ được con đèo An Khê nổi tiếng này trên sách vở - một địa danh đã ghi vào lịch sử.
< Trên đèo An Khê.
Lên đến đỉnh đèo nhìn xuống, cả một khung cảnh hùng vĩ và mang đầy sự huyền bí của núi rừng. Con đường đã qua giờ nhìn lại trông giống một con rắn đang uốn mình đi tới. Bên dưới, vài chiếc xe Reo chuyên dụng cũ của Mỹ, trông dữ tợn như loài bọ cạp khổng lồ, chở gỗ lâm trường đang “trườn” về xuôi, mà từ đây nhìn nó như những chú kiến nhỏ xíu. Tây Sơn Thượng đạo thuộc vùng rừng núi An Khê, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Quần thể Tây Sơn Thượng đạo gồm 6 di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa của người Anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại do anh em họ Nguyễn lãnh đạo bùng nổ năm 1771. Vùng núi rừng An Khê của Gia Lai trở thành căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa. Chính từ căn cứ Tây Sơn Thượng đạo ở An Khê, đại quân của cuộc khởi nghĩa đã tràn xuống đồng bằng..... Các anh em nhà Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã lập được mối quan hệ anh em giữa người Kinh và người Thượng, tập hợp được các dân tộc Bắc Tây Nguyên ở vùng Tây Sơn Thượng đạo như người Ba Na, Gia Rai vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
< Qua suối - (tháng 4.1984: Kỹ sư điện lực - trái ; đạo diễn phim - phải).
Để có được chuyến đi lịch sử này, tôi đã phải cố gắng rất nhiều. Năm ngoái, tôi phải quay cho xếp Lê Quốc một phim, quay cho xếp phó Lương Đức một phim, cho người đẹp Lệ Mỹ (của xếp phó) một phim và cho cựu xếp Nguyễn Thiệu 2 phim (đó là những tiếng nói sinh sát trong chi bộ). Tất cả nếu không có sự nỗ lực vượt bậc của tôi thì khó mà có được chuyến làm phim đầu tay (với chức danh đạo diễn) thế này.
Đang mải mê với những dòng suy nghĩ mung lung chen lẫn, đan xen nhau như vậy thì xe đã tiến sâu vào địa phận Gia Lai. Là địa bàn dạo đó an ninh, có nhiều vấn đề còn đang nổi cộm. Anh lái xe nói, hay là ông đạo diễn nên thay cái áo khác thì tốt hơn. Nhìn ông to con thế này, lại áo bay Liên xô, đi xe U át, Fullro, nó nhẩm ông với cánh chuyên gia Nga lên Tây Nguyên tìm quặng mà để ý thì cũng chẳng hay ho gì!
Lại văn Sinh ngồi băng ghế sau cũng tán thưởng: phải đấy ông Cường ạ! Năm ngoái, đi quay săn voi cùng Phạm Bình qua đoạn này, tôi còn được nghe tụi Fullro còn cướp cả một chiếc xe chở khách loại nhỏ kia. Trên xe, có cả ông mặc áo bộ đội, cũng là mục tiêu tấn công của chúng đó... cẩn thận vẫn hơn ông ạ! Lần đầu lên Tây Nguyên, nên cảm giác về một vùng đất đầy huyền thoại cũng khiến tôi nhiều bỡ ngỡ. Nghe lời mọi người khuyên, tôi cởi bỏ chiếc áo bay và thay vào bằng chiếc áo kẻ sọc đen, mắt vẫn không rời đoạn đèo quanh co dốc dựng ngược đầy bí hiểm.
Càng lên cao, cảm giác về núi rừng trùng điệp tự nhiên như bị mất dần. Xa xa, những vạt luá xanh trải rộng, nom chả kém gì những cánh đồng luá ở miền xuôi thực sự là bất ngờ lớn đối với tôi. Ở độ cao như thế này, Tây Nguyên lại như một bình nguyên bằng phẳng và rộng bao la chứ đâu ruộng nương cứ vụn nhỏ như ở vùng núi rừng Tây Bắc mà tôi đã nhiều lần tới đó. Đúng cái tên Cao nguyên có lẽ là như vậy! Những mái nhà rông của người Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ – Triêng cao vút như lưỡi rìu chém ngược lên bầu trời xanh; những ngôi nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở rải rắc khắp các buôn làng.
Không khí trên cao nguyên dịu mát thay dần cái nóng cháy người ở miền biển. Bầu trời bước sang tháng tư, đầu mùa mưa nên xa xa đã bắt đầu xuất hiện những đám mây xam xám. Nhưng mùa khô vẫn lưu dấu ấn trên những vạt hoa Cúc Qùi vàng rực. Dọc bên con suối nhỏ ven đường có nhiều rẫy bắp, cà phê của đồng bào dân tộc. Thấp thoáng trước mặt, dãy Trường Sơn hùng vĩ dần hiện ra. Chúng tôi đã đến Tây Nguyên!
Khác với cảm giác vào Đà Lạt, thị xã Pleiku hiện lên từ rất xa. Nếu không có loáng thoáng những chú voi kéo gỗ bên những con đường đất đỏ gần đó. Thì ta như có cảm tưởng như lạc vào một thành phố nào đó ở vùng trung Âu, chứ khó mà nhận ra đó lại là trung tâm của một tỉnh trên Cao Nguyên xa xôi.
Theo truyền thuyết, thuở xa xưa ở vùng đất này không có tên gọi. Nhân ngày hội ở một bộ tộc Djarai, đồng bào tụ họp nhau lại ở nhà rông để ông Phaphai Tobal làm lễ. Trong lúc mọi người đang nhảy múa, ca hát theo tiếng cồng, tiếng trống, say sưa bên các ché rượu thơm ngon thì một cuộc xô xát giữa hai người con trai của vị tộc trưởng diễn ra ác liệt. Họ tranh giành quyền lực để kế vị người cha già yếu. Để phân giải, hai người con trai phải dùng sức mạnh bứt đứt đuôi trâu. Kết quả, người con trưởng thắng. Từ đó, người ta đặt tên cho địa danh này là Pleiku!
Đêm ở nhà khách chi nhánh điện lực, chúng tôi được đãi món cá quả rán giòn thơm phức. Lại một bất ngờ lớn nữa đến với tôi. Chỉ những khoanh cá to cạng vàng xuộm trên điã, anh phụ trách nhà nghỉ nói:
- Cá quả ở biển hồ đó! Nếu các đồng chí có nhiều thì giờ, tôi sẽ bố trí mời mọi người đi thăm. Lên Pleiku đây mà không ra hóng mát ở biển hồ thì cũng uổng.
Buổi tối tôi ghé thăm bố mẹ cô Lài, giáo viên, người hàng xóm với gia đình tôi cùng trong khu tập thể ở Hà Nội. Bố chị là đại tá, giám đốc công an tỉnh. Tôi mang quà của chị và cũng là để dò la xem tình hình an ninh ở cao nguyên dạo này ra sao? Không gặp được vị đại tá. Nhưng qua lời bà vợ thì tôi cũng tạm yên tâm. Vì sang năm nay an ninh trong toàn vùng đã khá lên rất nhiều. Muối, vải vóc và nhu yếu phẩm được nhà nước cung cấp đầy đủ hơn, người theo Fullro bỏ rừng về làm ăn lương thiện hàng loạt.
Nhìn chuồng lợn sau nhà, muời mấy chú ỉn mũm mĩm, bà giám đốc công an nói với tôi, nhờ bắp ở đây rẻ nên chăn nuôi ở trong này là rất phát tài. Một năm cô xuất hai lứa heo thịt cho công ty thực phẩm thị xã, tiền lãi còn bằng mấy lương của chú mày ấy chứ. Được cái khí hậu trong này dù ban ngày có nắng nóng tới đâu, ban đêm vẫn cứ phải đắp chăn, chăn bông quanh năm. Cháu ra bảo Lài, nghỉ hè cứ vào đây mà ở, Đà lạt, Sa pa chắc gì đã hơn được ở đây!
Ngày hôm sau chúng tôi được đưa tới những ngọn thác dự kiến sẽ triển khai những dự án thuỷ điện nhỏ, nội dung chính mà kịch bản phim của chúng tôi đề cập. Lang thang trên các nẻo đường đất đỏ trên cao nguyên Măng Đen, băng qua những rừng thông bạt ngàn, và những dòng sông đã đi vào huyền thoại như Dah, Bla, Pô Kô... Giữa núi rừng hoang sơ và hùng vĩ là những buôn làng của đồng bào các dân tộc: Ba Na, Brâm, Gia Rai, Xê Đăng, Rơ Măm... Nơi đây vẫn còn giữ nguyên vẹn những phong tục của ngàn xưa, như lễ đâm trâu, lễ ăn cơm mới, lễ tế thần linh, lễ bỏ mả. Họ là những cư dân nông nghiệp trồng lúa rẫy, mỗi năm làm một vụ, phụ thuộc vào nguồn nước trời.
Nhà rông là nơi sinh hoạt chung và cũng là nơi diễn ra lễ hội của làng. Làng nào càng đông dân cư, nhiều thanh niên và giàu có thì nhà rông càng to, càng cao. Đi sâu vào bản làng, trẻ con bồng bế nhau kéo ra tròn xoe mắt nhìn những người đồng bằng lần đầu đến Tây Nguyên. Đứa nào nước da cũng sạm nắng, nhưng gương mặt thể hiện nét hồn nhiên của trẻ thơ vùng núi. Chúng tôi gặp rất nhiều già làng với sắc da tím mốc như màu các vỉa quặng bôxít nằm rải rác khắp vùng cao nguyên. Tò mò có đôi lần tôi còn rờ tay vào làn da bụng của vài cụ.
Chao ôi, dầy chả kém gì da voi. Tôi quay sang nói với Sinh, có lẽ vòi muỗi có cứng tới đâu cũng khó mà xuyên thủng được. Chả thế mà đêm ngủ các cụ có cần mùng màn gì đâu. Mỗi chiếc khố đơn sơ vĩnh cửu thế thôi! Nhưng nhiều cụ sống thọ tới hơn trăm tuổi. Chỉ lúc nán lại nghỉ chân trên đường, mới có dịp la cà như thế chứ thời gian nào có phép chúng tôi khai thác sang các đề tài quá rộng, quá xa như thế.
Không chỉ ở Gia Lai mà đến đâu ở các tỉnh Tây Nguyên cũng bắt gặp những cầu thang đôi bắc lên nhà sàn với nhửng đục đẽo rất độc đáo. Đặc biệt ở khu các nhà mồ có rất nhiều bức tượng gỗ phản ánh công việc hàng ngày và sinh hoạt của người dân. Người đánh trống, người giã gạo, người trồng lúa, người đi săn, người khóc... nhưng nhiều nhất là nói sự sinh thành, sự ra đời và tái sinh mãi mãi của con người: Tượng những thanh nữ ngực trần phồn thực, người đàn bà chửa, mẹ bồng con, cả những tráng niên lực lưỡng với những khẩu "đại pháo" chỉa ra đầy uy lực ... Nhìn những đục đẽo giầu sức biểu cảm như thế đó có thể nhận ra đây là những tác phẩm được làm liền mạch như một cơn xuất thần tất yếu và bất chợt, dường như bức tượng đã nằm sẵn trong thân gỗ và óc người sáng tác, họ chỉ có việc bóc nó ra bằng những nhát rìu thúc giục.
< Biển hồ Tơ Nưng.
Từ tỉnh lỵ Pleiku theo quốc lộ 14 đi về thị xã Kon Tum, khi đến km 7 thì rẽ về tay phải, theo con đường mòn dẫn đến hồ.
Biển Hồ là tên do người Kinh đặt, còn tên thật của nó là Tơ Nueng, là một miệng núi lửa khổng lồ nằm ở phía bắc thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai quanh năm ăm ắp nước và luôn luôn xanh ngăn ngắt, như một chiếc gương trên chót vót cao nguyên cho mây trời soi bóng. Xung quanh nó có rất nhiều bí ẩn và huyền thoại khiến Biển Hồ lại càng lung linh kỳ ảo trong ký ức của con người, cả người sở tại và khách vãng lai.
Ngay cái tên Biển Hồ có lẽ cũng là do khát vọng của con người mà ra. Cao nguyên Pleiku cao hơn mực nước biển cả nghìn mét. Theo nguyên tắc bình thông nhau thì chả có giọt nước nào tồn tại được trên những đỉnh núi cao này. Và vì thế mà con người khao khát nước, khao khát biển. Vì thế có một cái “ao” trên đỉnh núi cao vời vợi, đứng ở dưới đồng bằng cách chân núi không xa nhìn lên chỉ thấy mây phủ kín mà hiện hữu một cái “biển” hồ như thế thì cũng kỳ lạ quá rồi. Đó thực chất chính là miệng một núi lửa nhưng khác là âm sâu xuống lòng đất.
Đối diện với Biển Hồ theo trục Bắc Nam khoảng ngót chục cây số là đỉnh Hàm Rồng, cũng là một miệng núi lửa khổng lồ khác. Hàm Rồng là dương, dương từ khí núi, hiên ngang như tấm bình phong chắn gió. (Xung quanh thành phố Pleiku là hàng trăm miệng núi lửa lớn nhỏ, nhưng lớn nhất vẫn là Biển Hồ và Hàm Rồng). Rất đối xứng, một bên nhô lên, bên thụt xuống, khiến có người liên tưởng so sánh nó như Yo Ni và Lin Ga. Diện tích của Hàm Rồng và Biển Hồ cũng tương ứng nhau, hình dáng cũng tương tự nhau. Hồi cuối 1980, khi mang máy quay phim theo đoàn không ảnh quốc tế trên máy bay AN 30, suốt 6 tiếng liền tôi đã thấy như thế, giống như kiểu bứng phần lõm của Biển Hồ đặt vào Hàm Rồng vậy, tức là nếu bê Hàm Rồng thả xuống Biển Hồ thì sẽ khít khịt, vừa như in. Tạo hoá công vĩ đại hẳn còn chứa nhiều bí ẩn?
Trữ lượng nước của Biển Hồ vào khoảng 25 đến 30 triệu m3, xê dịch giữa mùa khô và mùa mưa chứ nó không “nguyên si, không đổi” như lời đồn. Nhưng nguyên việc có một cái hồ nước vĩ đại đến ba chục triệu mét khối lơ lửng trên tầng trời như thế đã là kỳ diệu lắm rồi...
Nước hồ quanh năm đầy ắp, xanh trong có thể nhìn rõ từng đàn cá bơi lội dưới nước. Hồ có độ sâu từ 20 đến 40m. Ðây là vựa cá, hàng năm cung cấp cho Pleiku hàng trăm tấn cá. Phong cảnh xung quanh hồ thật ngoạn mục, từ những cây cối và các loài hoa khoe sắc ven hồ, ong bướm dập dìu tiếng hót của các loài chim lảnh lót mỗi buổi sớm mai. Kế đó là những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn đồi uốn lượn trập trùng... Những chiếc thuyền độc mộc lướt trên mặt nước.
Giữa mùa nắng nóng oi nồng mà ở đây rất dễ chịu: không khí trong lành và mát rượi. Đây còn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt, nước cho cây trồng và vật nuôi cho một vùng rộng lớn. Nguồn lợi tự nhiên mà biển hồ mang lại vô cùng to lớn và quan trọng, nhất là đối với vùng cao nguyên ở độ cao gần ngàn mét so với mặt biển và hiếm nước.
Các nhà khảo cổ học đã thám sát, thăm dò và khai mở trang sử từ lòng đất này cho chúng ta biểt về văn hóa biển hồ - nền văn hóa đặc sắc thời tiền sử…Biển hồ Tơ Nưng với nhiều góc độ nổi lên như một viên ngọc bích giữa mênh mông đất đỏ Tây Nguyên.
Còn tiếp
Những chặng đường gió bụi (Phần 2)
- Theo Goccomau Blog, ảnh internet
0 nhận xét: