Rằm tháng Bảy thăm động âm phủ Ngũ Hành Sơn
< Cửa động Âm Phủ.
Từ truyền thuyết…
Tự nhận là nguời “ăn cơm dương gian, nói chuyện âm phủ”, Trưởng Ban quản lý (BQL) khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, ông Lê Quang Tươi cho hay, động Âm Phủ nằm dưới chân Thủy Sơn (ngọn lớn nhất trong Ngũ Hành Sơn) do kiến tạo độc đáo của thiên nhiên nên đã trở thành một trong những hang động lớn và huyền bí nhất ở quần thể này.
< Bước qua cầu Âm Dương bắc qua sông Nại Hà.
Trung bình mỗi năm có hơn nửa triệu lượt khách trong và ngoài nước tham quan danh thắng Ngũ Hành Sơn, gồm 5 ngọn Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn do vua Minh Mạng đặt tên từ đầu thế kỷ thứ XIX. Song không phải ai cũng có “gan” một lần xuống động Âm Phủ đầy sức quyến rũ kỳ bí.
< Những lối đi quanh co, huyền bí trong động Âm Phủ.
Người viết bài này cũng không… ngoại lệ, nhất là khi nghe cô hướng dẫn viên Bích Phượng của khu danh thắng kể về những truyền thuyết chung quanh hang động này!
Tương truyền khi vi hành đến Ngũ Hành Sơn, vua Minh Mạng đã nhiều lần khám phá động Âm Phủ, vì đây là hang động tương đối hiểm trở, khó vào, bên trong có một đường chui sâu xuống lòng đất. Tại đây, nhà vua đã cho 12 quân lính cầm đuốc lần lượt chui xuống. Lạ thay, mỗi lần chui xuống là mỗi lần tắt đuốc. Có một số người lính can đảm tìm cách xuống động mà không cần cầm đuốc, nhưng cũng đều thất bại.
< Đường lên “Thiên Thai Giới”.
Cũng có tương truyền vua Minh Mạng muốn tìm hiểu động Âm Phủ sâu đến đâu nên ngài đã khắc chữ vào quả bưởi rồi thả xuống hang. Qua hôm sau, người ta nhìn thấy quả bưởi nổi trên bãi biển.
Chuyện thực hư thế nào chưa rõ, nhưng cảm giác ban đầu là hang động này rất sâu, hiểm trở, càng xuống càng tối, đường đi quanh co, không khí ẩm ướt, cảm giác ghê sợ, thậm chí nếu lỡ rớt xuống đó thì chỉ còn nước tìm xác… ngoài biển!
< Lối xuống “Địa Ngục Môn”.
Nhưng rồi người viết bài này đã không cưỡng lại được khi cô hướng dẫn viên còn rất trẻ nói một câu hết sức chí lý: “Ta bước xuống động Âm Phủ - Ngũ Hành Sơn không phải để xuống 10 tầng địa ngục, mà để cảm nhận từ lòng đất này một nguồn suối nhiệm mầu nuôi dưỡng cho sự sống, để sống đẹp hơn, thiện hơn và thật hơn”.
< Ngục A Tỳ gắn với Phật tích Mục Liên Thanh Đề.
Đến sự hướng thiện
Âm phủ là thế giới của người chết. Theo quan niệm luân hồi của Phật giáo, chết không phải hết mà là sự chuyển tiếp để đầu thai về cảnh giới khác. Tên gọi “Âm phủ” đã đi vào tiềm thức con người như là nơi đày ải kẻ gây nhiều tội ác, là thế giới do ma vương cai quản để trừng phạt tội đồ. Âm phủ là nỗi ám ảnh đối với con người ở thế gian, cảnh tỉnh họ luôn hướng đến điều lành, tránh điều dữ, biết ăn ngay, nói thật, biết sám hối, ăn năn, làm nhiều việc thiện để mong sau khi rời khỏi dương gian không bị đày xuống âm phủ.
< Giám Kính Đài.
Ông Phạm Hiền, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Quận uỷ Ngũ Hành Sơn luận giải, trong đời sống con người và vạn vật luôn tồn tại hai mặt đối lập: có ngày ắt có đêm, có sinh ắt có tử. Ở động Âm Phủ có nhiều truyền thuyết vừa thực, vừa ảo.
< ... và Phán Quang Điện với chiếc cân Thiên Lý là hai nơi cân nhắc công và tội của mỗi người khi xuống động Âm Phủ.
“Thực” là con người ai cũng một lần sinh và một lần tử, còn “ảo” là sự phân xử của tạo hóa về cái thiện - ác của kiếp con người. Bởi vậy chăng mà trong động này được chia làm hai ngách: đường lên “Thiên Thai Giới” và lối xuống “Địa Ngục Môn” như một lẽ tất yếu của thuyết âm dương.
< Sám Hối Đài.
Từ hàng trăm năm trước, những người thợ làng đá mỹ nghệ Non Nước đã đặt ở cửa ngõ vào động Âm Phủ chiếc cầu Âm Dương bắc qua sông Nại Hà định mệnh, nơi linh hồn con người khi chết phải đi qua theo luật âm ty.
Nếu khách “vào vai” một người bị kéo xuống Âm Phủ sẽ bắt gặp ông Thiện, ông Ác canh giữ cửa động nghiêm ngặt ngày đêm. Thiện và Ác đến đây đều sẽ được phân minh.
< Địa Tạng Bảo Toà với những sắc màu huyền ảo.
Cũng ở động Âm phủ, khách sẽ được chứng kiến Phật tích “Mục Kiền Liên - Thanh Đề”, một câu chuyện nhân quả đầy tính nhân văn, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Trong động Âm Phủ, lối xuống “Địa Ngục Môn có các cửa ngục được sắp đặt từ cao xuống thấp và dưới cùng là ngục A Tỳ, nơi giam giữ bà Thanh Đề vốn gây nhiều tội lỗi.
Con trai bà là Ngài Mục Kiền Liên, một vị chân tu đắc đạo nhưng do nghiệp chướng của mẹ quá nặng nên Ngài không thể cứu thoát được. Song Ngài vẫn tâm nguyện tu luyện để chuộc tội cho mẹ.
< Du khách đến chiêm bái và dâng hương ở Địa Tạng Bảo Toà.
Hàng năm đến rằm tháng 7, Ngài Mục Kiền Liên lại xuống địa ngục tìm mẹ để được báo hiếu công đức sinh thành. Lòng hiếu thuận của con đã làm cho người mẹ ăn năn sám hối và tiếp tục tu tâm sửa tính để trở lại cuộc sống an vui hạnh phúc.
Từ Phật tích Mục Kiền Liên nên ngày rằm tháng 7 hằng năm được gọi là ngày báo hiếu, đại lễ Vu Lan của Phật giáo. Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ không chỉ là triết lý nòng cốt của đạo Phật mà còn là phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Theo Hải Châu (Infonet)
0 nhận xét: