Chùa Chuông - Phố Hiến đệ nhất danh lam

So với Hội An, “người anh em” cùng thời ở Đàng Trong, thì phố Hiến, thương cảng quốc tế nổi tiếng vào thế kỷ 16 - 17, dưới thời Lê Trịnh ở Đàng Ngoài cũng không kém phần phồn hoa tấp nập.

Giữa bộn bề đường ngang, lối dọc công sở mới mọc lên trong cơn lốc đô thị hóa của thị xã Hưng Yên, Kim Chung Tự (chùa Chuông), nằm tách biệt dưới những rặng nhãn cổ thụ, vẫn còn "dấu xưa xe ngựa"...
Có dịp về lại nơi này, bạn sẽ thấy dưới những rặng nhãn lồng, gốc hoa gạo xù xì nở bừng hoa vào mỗi dịp tháng ba, vẫn còn “dấu xưa xe ngựa” trong đó nguyên vẹn nhất, quy mô nhất là chùa Chuông.

< Toàn cảnh chùa Chuông nhìn từ cổng vào.

Chùa Chuông là một trong những cảnh quan của phố Hiến nổi danh một thời, tồn tại tới ngày nay, bao gồm đền Mẫu Hoa Dương, Mẫu Thiên Hậu, đền Trần, chùa Phố, chùa - đình Hiến, chùa Nễ Châu, Văn Miếu Xích Đằng, Võ Miếu, hồ Bán Nguyệt, Đông Đô Quảng Hội, bia mộ của khách buôn ngoại quốc...

Chùa Chuông được xây dựng từ thế kỷ 15, dưới thời Lê. Tương truyền một năm lũ lụt lớn, một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi sông Cái (sông Hồng) thuộc địa phận thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thị xã Hưng Yên hiện nay. Thế là các nơi đua nhau kéo chuông về, nhưng chỉ có dân làng Nhân Dục mới làm được. Dân làng cho là trời phật giúp đỡ, bèn góp công của dựng chùa tưởng nhớ công ơn. Mỗi lần đánh, tiếng chuông vang rất xa vì thế, chùa còn có tên gọi là Kim Chung Tự (chùa Chuông Vàng).

< Chiếc cầu đá dẫn qua ao súng (mắt rồng).

Năm 1707, chùa được trùng tu lớn với quy mô hoàn chỉnh như hiện nay. Trong cuốn Hưng Yên tỉnh nhất thống chí của Trịnh Như Tấu, thời Nguyễn có ghi rằng: “Chùa Chuông - Phố Hiến đệ nhất danh lam”. Không phải ngẫu nhiên mà chùa Chuông đã hiện diện khá nhiều trong phim Mê Thảo thời vang bóng của đạo diễn Việt Linh.

Chùa Chuông là một trong những cảnh quan của phố Hiến nổi danh một thời, tồn tại tới ngày nay, bao gồm đền Mẫu Hoa Dương, Mẫu Thiên Hậu, đền Trần, chùa Phố, chùa - đình Hiến, chùa Nễ Châu, Văn Miếu Xích Đằng, Võ Miếu, hồ Bán Nguyệt, Đông Đô Quảng Hội, bia mộ của khách buôn ngoại quốc...

< Sân chùa mang lại cảm giác thanh thản.

Năm 1992, ngôi chùa này được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, quy mô lớn của miền Bắc, kết cấu theo kiểu “nội công ngoại quốc”, với kiến trúc thời Lê - Trịnh từ thế kỷ 17, 18, còn hiện diện tới ngày nay.

Qua tam quan là ba nhịp cầu đá xanh được xây dựng năm 1702, bắc ngang qua ao mắt rồng. Khoảng sân rộng rãi được lát gạch Bát Tràng, chính giữa là con đường được trải đá xanh dẫn thẳng tới tiền đường. Theo quan niệm nhà Phật, đường này gọi là Nhất chính đạo, con đường chân chính duy nhất dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ.

Tiền đường năm gian hai chái, kết cấu kiểu con chồng đấu sen. Nối giữa tiền đường và thượng điện là khoảng sân, ở giữa có cây hương bằng đá như cột kinh đá xưa, bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân tu sửa chùa.

Thượng điện cũng gồm năm gian hai chái, kết cấu giống tiền đường, mang đậm nét kiến trúc thời hậu Lê, kết lại là gác chiêng, gác khánh được xây cao, đột khởi lên toàn bộ lớp mái chùa.

Ngoài các tượng Thích Ca sơ sinh, tòa Cửu Long, Phật A Di đà, Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Tam Thế... điểm đặc sắc của chùa Chuông là hệ thống tượng La Hán cùng phù điêu gỗ Thập điện Diêm vương ở hành lang hai bên. Phù điêu gỗ Thập điện Diêm Vương diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua ở cõi âm.

Theo triết lý nhân quả của nhà Phật, sau khi từ giã cõi đời, con người phải trải qua mười cửa điện để Diêm Vương xét hỏi công và tội. Mỗi tội trạng là một hình phạt tương ứng. Cạnh đó là tượng Bát Bộ Kim Cương và 18 pho tượng La Hán trong tư thế ngồi, nét mặt rất sinh động, mỗi người một vẻ. Có thể nói, cùng với bộ tượng La Hán danh tiếng chùa Tây Phương, đây cũng là một trong những bộ tượng La Hán đẹp nhất Việt Nam...

< Hệ thống tượng La Hán, phù điêu sống động, tô đậm thêm bầu không gian thiêng liêng, cổ kính.

Một trong những hiện vật có giá trị nhất của chùa là Kim Chung tự thạch bi ký - bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7, thời Lê Trung Hưng (1711), ghi tên người có công đức tu sửa chùa; trong đó miêu tả cảnh đẹp của phố Hiến và các phường: Hàng Bè, Hàng Sũ, Thợ Nhuộm, Cự Đệ, Hàng Thịt... mà nay chỉ còn trong dĩ vãng.

Nhờ vậy, các nhà nghiên cứu có thể đoán định có con đường thiên lý thông thương giữa phố Hiến với Thăng Long qua lại trước cửa chùa và ghi nhận đơn vị phường của phố Hiến, lúc đó đã có hai mươi phường.

- Tổng hợp từ Đất Việt, Doanh Nhân Sài Gòn, Người Lao Động...