Chùa Từ Đàm - Danh lam xứ Huế
< Cổng tam quan chùa Từ Đàm.
Thiền thất được ngài Minh Hoằng - Tử Dung, vị Thiền sư Trung Hoa dựng vào cuối thế kỷ XVII (khoảng năm 1690) vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái, tại Hoàng Long Sơn, đặt tên là Ấn Tôn với ý nghĩa lấy sự truyền tâm làm tông chỉ. Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc tứ Ấn Tôn Tự. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị sắc chỉ đổi tên “Từ Đàm Tự” tức đám mây lành, tượng trưng cho đức Phật, cho ngôi chùa Việt Nam.
< Cây Bồ đề tại chùa Từ Đàm.
Năm 1699, ngài Liễu Quán đã đến cầu học tham thiền với Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung. Ngài đã trình kệ "Dục Phật" (tắm Phật) được Tổ ấn khả, truyền tâm ấn trong kỳ an cư kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712).
Từ một ngôi chùa cổ kính của Thiền phái Lâm Tế, chùa Từ Đàm được xây dựng làm chùa Hội quán Tỉnh hội Phật giáo. Từ những năm 1920, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền.
< Mặt tiền của chùa Từ Đàm xưa.
Tại Huế, An Nam Phật học hội thành lập vào năm 1932 do các vị cao tăng thạc đức, cư sĩ lãnh đạo như các ngài Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết, bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, cụ Nguyễn Khoa Tân, cụ Nguyễn Đình Hòa … Năm 1936, chư sơn môn đồng thuận giao chùa cho Hội để làm nơi thờ phụng và làm trụ sở của Hội. Ngày 18-12-1938, Tỉnh hội Phật học Thừa Thiên đã xây chùa Hội quán trên nền cũ chùa Từ Đàm, giảng đường, nhà tăng và một số căn nhà làm việc của Tỉnh hội.
< ... và nhà tiền đường bây giờ, sau khi được xây mới.
Ngôi chùa cũ có nhà tiền đường, mái ngói, ba gian, rộng 7,4m, dài 18m. Gian trong cùng thờ tượng đức Phật Thích Ca ngự trên tòa sen, tay bắt ấn Tam muội. Tượng bằng đồng, cao khoảng 1,30m, do hai ông Nguyễn Khoa Toàn và Nguyễn Hữu Tuân thực hiện năm 1940. Hai bên tượng treo hai tràng phan, một bên đề danh hiệu 7 đức Phật ở Ta Bà, một bên đề danh hiệu 7 đức Phật ở Tịnh Độ.
Trên vòng cung trước bàn thờ treo tấm hoành sơn son thếp vàng giữa có ba chữ Hán “Ấn Tôn Tự”, phía trái có mấy chữ Thiên Vận Quý Mùi (1703) Sơ Xuân Cát Đán. Đối diện bức hoành trên là một bức hoành giữa đề bốn chữ “Huệ Nhật Trung Thiên”.
Cổng tam quan chùa được xây dựng năm 1965, phía trong là cội Bồ đề. Cây Bồ đề này có nguồn từ cây Bồ đề chính tại Ấn Độ, nơi đức Phật Thích Ca thành đạo quả vô thượng giác, đã được nhà sư Mahinda (nguyên thái tử, con vua A Dục) đem giống sang trồng tại Srilanca (Tích Lan) khi qua truyền đạo tại đây vào thế kỷ III trước Tây Lịch. Trưởng lão Narada, người Tích Lan, lấy giống từ cây Bồ đề ở Tích Lan cùng bà Karpelès trong phái đoàn Phật giáo Campuchia tặng Hội Phật học Trung phần và trồng tại đây trong dịp sang thăm Huế năm 1939.
Năm 1951, chùa là nơi tổ chức Hội nghị 51 đại biểu của 6 tập đoàn Tăng già và Cư sĩ ở 3 miền thành lập Hội Phật giáo Việt Nam và phê chuẩn việc Hòa thượng Tố Liên thay mặt Hội Phật giáo Việt Nam ký tên gia nhập Hội Phật giáo thế giới. Bài hát nổi tiếng "Từ Đàm quê hương tôi" của Nguyên Thông đã có nói đến sự kiện quan trọng này : "Ôi ! anh linh bóng chùa Từ Đàm, nơi Bắc Nam nối nguồn Đạo Vàng ... Từ Đàm ơi !"
< Điện Phật chùa Từ Đàm xưa.
Trong bài viết "Vai trò và vị trí chùa Từ Đàm đối với Phật giáo xứ Huế và miền Trung", Tỳ kheo Thích Hải Ấn cho biết từ năm 1940 ở Huế đã có Ban Đồng Ấu rồi có Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục của bác sĩ Lê Đình Thám lập ra, tụ hôi được nhiều phần tử trí thức tân học thời đó để dạy Phật pháp cho họ. Năm 1943, Gia đình Phật Hóa Phổ ra đời, đến năm 1951, đổi thành Gia đình Phật tử, đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm và lan rộng tới cả miền Bắc và miền Nam.
< ... và bây giờ.
Ngày 04-7-2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện với chiều dài 42m, chiều ngang 35,9m gồm hai phần, dưới là tầng hầm dùng làm hội trường, trên là ngôi chánh điện, kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, ba gian hai chái, kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế. Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày 24-12-2007 (ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi).
Chùa Từ Đàm ngày nay là một ngôi già lam tráng lệ. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca, hai bên có phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền. Chùa có nhiều hoành phi và câu đối. Xin trích 3 cặp đối do Tỳ kheo trụ trì Thích Hải Ấn ghi lại và dịch nghĩa :
< Lễ đài Phật đản.
1. Trước hiên chùa, cặp đối do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám soạn:
Phật chính biến tri, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức.
Học chân thật nghĩa, như thị văn, như thị tư, như thị tu trì.
Nghĩa: Phật là bậc Chánh Biến tri, Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức.
Học theo nghĩa chân thật, nghe như vậy, tư như vậy, tu trì như vậy.
2. Trước hiên chùa, cặp đối do cụ Phan Bội Châu tặng:
Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp,
Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.
Nghĩa: Bát-nhã vốn không lời, rời bốn vế, trừ trăm không, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên,
Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ năm mắt, tựu thành quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.
3. Trong điện Phật, cặp đối của cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu soạn:
Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.
< Tổ đường.
Nghĩa: Bát-nhã vốn không lời, rời bốn vế, trừ trăm không, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ năm mắt, tựu thành quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.
Chùa hiện đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế. Những ngày đại lễ của Phật giáo hằng năm như kỷ niệm ngày Phật đản, lễ Vu Lan, lễ Phật Thành đạo ... và nhiều hoạt động Phật sự khác ở Huế đều được tổ chức trọng thể tại chùa. Chùa thường xuyên đón tiếp chư vị Tôn đức lãnh đạo Phật giáo các nước, chư vị học giả, trí thức và nhiều đoàn du khách, Phật tử trong nước, nước ngoài đến thăm, lễ Phật.
- Theo báo Giác Ngộ
0 nhận xét: